Xu hướng lãi suất của các nền kinh tế - Chi phí vốn có còn rẻ?

Trong các chu kỳ kinh tế trước đây, mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và chi phí vốn thường khá rõ ràng.

Theo đó, khi lãi suất điều hành giảm, vốn trở nên rẻ hơn, dòng tiền lan tỏa và hỗ trợ tăng trưởng. Tuy nhiên, giai đoạn hiện nay đang cho thấy một sự thay đổi mang tính cấu trúc. Lãi suất điều hành tại nhiều nền kinh tế lớn có xu hướng giảm, nhưng chi phí vốn trung và dài hạn – yếu tố quyết định đầu tư và tăng trưởng của kinh tế thực – lại không giảm tương ứng.

Sự lệch pha này cho thấy dòng tiền toàn cầu đang vận động khác đi so với các chu kỳ quen thuộc, và những thay đổi đó đang dần lan sang các nền kinh tế có độ mở cao, phụ thuộc nhiều vào tín dụng ngân hàng như Việt Nam.

Xu hướng lãi suất của các nền kinh tế - Chi phí vốn có còn rẻ?
Fed đã có 3 đợt cắt giảm lãi liên tiếp trong năm 2025.

Lãi suất điều hành giảm có đồng nghĩa với “vốn rẻ”?

Trong các chu kỳ trước, việc hạ lãi suất thường kéo theo chi phí vay vốn giảm, doanh nghiệp mở rộng đầu tư, người dân tăng chi tiêu và kinh tế tăng trưởng. Tuy nhiên, chu kỳ hiện nay không còn vận hành theo logic đó.

Trên thực tế, lãi suất điều hành có xu hướng giảm, nhưng lãi suất vay trung và dài hạn – loại vốn doanh nghiệp cần để đầu tư nhà xưởng và dự án – lại không giảm tương ứng. Nói cách khác, chính sách tiền tệ đã nới lỏng, nhưng chi phí vốn thực tế trong nền kinh tế không còn “rẻ” như trước.

Để lý giải hiện tượng này, cần nhìn vào trung tâm phát tín hiệu chính sách của hệ thống tài chính toàn cầu – Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED).

Fed hạ lãi suất, nhưng chi phí vay vẫn cao

Tính đến giữa tháng 12/2025, Fed đã dừng chương trình thắt chặt định lượng (QT) sau khi thu hẹp bảng cân đối kế toán hơn 2.400 tỷ USD so với giai đoạn đỉnh điểm. Trong bối cảnh lạm phát hạ nhiệt và thị trường lao động chậm lại, Fed tiếp tục hạ lãi suất 0,25 điểm % trong kỳ họp vừa qua. Điều này thường được hiểu là môi trường tiền tệ sẽ “dễ thở” hơn.

Ở các chu kỳ trước, việc giảm lãi suất thường khiến chi phí vay vốn giảm mạnh. Tuy nhiên, hiện nay hiệu quả này đã giảm đi rõ rệt. Lãi suất ngắn hạn phản ứng nhanh với quyết định của Fed, trong khi chi phí vay trung và dài hạn lại phụ thuộc nhiều hơn vào cung – cầu vốn và kỳ vọng lạm phát. Khi Chính phủ Mỹ và khu vực doanh nghiệp phải phát hành mới và đảo nợ với quy mô rất lớn, đặc biệt khi lượng nợ phát hành giai đoạn 2020–2021 đến kỳ đáo hạn, các tổ chức cho vay yêu cầu mức lãi suất cao hơn để bù đắp rủi ro.

Các ngân hàng đầu tư lớn hiện vẫn dự báo lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm duy trì quanh 4–4,5% trong năm 2026. Vì vậy, dù lãi suất điều hành giảm, chi phí vốn thực tế vẫn neo cao.

Khi kinh tế lớn nhất thế giới nới lỏng nhưng lãi suất dài hạn vẫn cao, điều này đặt ra nghi vấn liệu đây là hiện tượng toàn cầu. Thực tế, nhiều nơi khác cũng ghi nhận tình trạng tương tự, nổi bật là Nhật Bản – vốn nổi tiếng với lãi suất thấp trong nhiều thập kỷ.

Nhật Bản - Thay đổi từ lãi suất thấp nhất

Kể từ năm 1998, Nhật Bản luôn duy trì lãi suất cực thấp. Đây từng được xem là “mức sàn” lãi suất của kinh tế toàn cầu.

Chính sách này giúp Nhật Bản tránh suy thoái sâu và kích thích chi tiêu trong giai đoạn tăng trưởng trì trệ kéo dài. Tuy nhiên, đến những năm gần đây, các giới hạn bắt đầu bộc lộ.

Giá cả tại Nhật Bản tăng trong thời gian đủ dài khiến sức mua của người dân giảm, chi phí sinh hoạt tăng và tạo ra áp lực xã hội ngày càng rõ rệt. Đồng thời, việc giữ lãi suất quá thấp trong khi các nước khác từng tăng mạnh lãi suất khiến đồng yen mất giá, làm hàng nhập khẩu đắt đỏ.

Quan trọng hơn, NHTW Nhật Bản (BOJ) phải mua quá nhiều trái phiếu để giữ lãi suất thấp, khiến thị trường mất cân bằng và gia tăng rủi ro cho chính hệ thống tài chính. Đến một thời điểm, cái giá phải trả cho lãi suất thấp trở nên quá lớn. Nhật Bản buộc phải chấp nhận mặt bằng lãi suất cao hơn trước, dù nhiều nước khác bắt đầu nới lỏng chính sách.

Nhật Bản không tăng lãi suất vì kinh tế quá nóng, mà vì không thể tiếp tục chịu đựng hậu quả của lãi suất quá thấp. Dù bối cảnh khác biệt, diễn biến tại Nhật Bản vẫn phản ánh một thực tế chung: chi phí vốn đang trở nên đắt hơn.

Trung Quốc và làn sóng “xuất khẩu giảm phát”

Khi vay vốn trở nên đắt đỏ và rủi ro hơn, doanh nghiệp và nhà đầu tư thận trọng hơn với các quyết định đầu tư dài hạn. Dòng tiền vì vậy có xu hướng ưu tiên những khu vực có khả năng quay vòng nhanh và linh hoạt hơn.

Tiền vẫn luân chuyển trong nền kinh tế, nhưng xu hướng ưu tiên đang nghiêng nhiều hơn về các tài sản tài chính, trong khi dòng vốn vào đầu tư sản xuất và tiêu dùng tăng chậm hơn so với các chu kỳ trước. Đây là lý do dòng tiền toàn cầu tập trung nhiều hơn vào các thị trường tài sản tại các nền kinh tế phát triển – nơi hệ thống tài chính ổn định và mức độ minh bạch cao.

Tại Mỹ, dù định giá cao, thị trường chứng khoán vẫn duy trì vùng đỉnh nhờ dòng tiền cá nhân, đặc biệt ở các lĩnh vực có tiềm năng tăng trưởng nổi bật như công nghệ và trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, nền kinh tế thực đang có dấu hiệu chững lại. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ đã lên tới khoảng 4,4%, gây tác động trực tiếp đến mức tiêu dùng của những người có thu nhập thấp. Trong khi đó, nhóm thu nhập cao tiếp tục hưởng lợi từ giá nhà và chứng khoán tăng, khiến khoảng cách giàu nghèo ngày càng rõ nét.

Khi cầu toàn cầu chậm lại, áp lực đầu tiên rơi vào các nền kinh tế sản xuất quy mô lớn. Trung Quốc là trường hợp tiêu biểu phải đối mặt với tình trạng dư thừa năng lực sản xuất và phải tìm cách đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường quốc tế.

Trong bối cảnh cầu nội địa phục hồi chậm, bất động sản suy yếu và năng lực sản xuất dư thừa kéo dài, Trung Quốc gia tăng xuất khẩu như một phản ứng mang tính cấu trúc nhằm duy trì hoạt động sản xuất, thay vì là một lựa chọn chính sách ngắn hạn. Trong 11 tháng đầu năm 2025, thặng dư thương mại hàng hóa của Trung Quốc đã vượt mốc 1.000 tỷ USD, đạt khoảng 1.070 tỷ USD – mức cao kỷ lục.

Hiện tượng này thường được gọi là “xuất khẩu giảm phát”: hàng hóa được xuất ra thị trường quốc tế với giá cạnh tranh, giúp giải tỏa năng lực sản xuất dư thừa trong nước.

Hàng hóa giá cạnh tranh giúp các nước nhập khẩu kiềm chế lạm phát, nhưng đồng thời tạo áp lực lớn lên sản xuất nội địa tại những nền kinh tế có độ mở cao và gắn chặt với chuỗi cung ứng khu vực. Việt Nam nằm trong nhóm chịu tác động rõ rệt.

Việt Nam: Áp lực và nhu cầu vốn

Xu hướng lãi suất của các nền kinh tế - Chi phí vốn có còn rẻ?
Để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP khoảng 10%, tổng nhu cầu vốn đầu tư trong 5 năm tới có thể lên tới 1.400 tỷ USD, tương đương 280 tỷ USD mỗi năm. (Ảnh minh họa: Quốc Tuấn)

Việt Nam là nền kinh tế có độ mở cao, vừa phụ thuộc lớn vào xuất khẩu, vừa nhập khẩu khối lượng lớn nguyên liệu và hàng hóa trung gian từ Trung Quốc. Tính đến hết tháng 11/2025, Việt Nam ghi nhận thặng dư thương mại với Mỹ khoảng 121 tỷ USD, trong khi nhập siêu từ Trung Quốc lên tới khoảng 104 tỷ USD.

Trong khi đó, mô hình tăng trưởng trong nước phụ thuộc nhiều vào vốn vay ngân hàng. Theo tính toán của Bộ Tài chính, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP khoảng 10%, tổng nhu cầu vốn đầu tư trong 5 năm tới có thể lên tới 1.400 tỷ USD, tương đương 280 tỷ USD mỗi năm. Khi chi phí vốn toàn cầu không còn rẻ, doanh nghiệp trong nước gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tiếp cận vốn.

Trong bối cảnh huy động vốn thấp hơn cho vay kéo dài, theo các ước tính dựa trên xu hướng tăng trưởng tín dụng hiện nay, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam có thể tiệm cận khoảng 145% vào cuối năm 2025, khiến dư địa nới lỏng tiền tệ không còn nhiều. Lãi suất liên ngân hàng qua đêm đã tăng lên vùng trên 7%, trong khi Ngân hàng Nhà nước nâng lãi suất OMO từ 4% lên 4,5%, phát đi tín hiệu thận trọng hơn trong điều hành.

Trong bối cảnh đó, thị trường chứng khoán Việt Nam khó có được sự nâng đỡ rộng khắp như giai đoạn tiền rẻ trước đây. Dòng tiền đầu tư trở nên chọn lọc hơn và phụ thuộc nhiều hơn vào sức khỏe thực sự của doanh nghiệp.

Những diễn biến tại Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc phản ánh các động lực khác nhau, nhưng cùng cho thấy một xu hướng chung: Chi phí vốn toàn cầu đang duy trì ở mặt bằng cao hơn so với giai đoạn tiền rẻ trước đây.

Khi lãi suất điều hành giảm nhưng chi phí vốn thực tế không giảm tương ứng, dòng tiền vận động thận trọng hơn và lan tỏa yếu hơn vào kinh tế thực. Với những nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào tín dụng ngân hàng như Việt Nam, tác động của xu hướng này thể hiện rõ nét hơn.

Có thể nói nhiều tín hiệu cho thấy chu kỳ tiền rẻ đã qua. Chu kỳ mới không đồng nghĩa với suy thoái, nhưng đòi hỏi kỷ luật vốn cao hơn, đầu tư chọn lọc hơn và một cách nhìn thận trọng hơn đối với tăng trưởng và thị trường tài chính.

Nguồn: Xu hướng lãi suất của các nền kinh tế - Chi phí vốn có còn rẻ?

Nguyễn Thanh Nguyên Vũ – Nhà sáng lập TVN & Partners
diendandoanhnghiep.vn
Chia sẻ

Tin liên quan

Cùng chuyên mục

NHNN chính thức cung cấp 32 dịch vụ công trực tuyến toàn trình

NHNN chính thức cung cấp 32 dịch vụ công trực tuyến toàn trình

NHNN chính thức đưa vào vận hành Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) tập trung của NHNN và chính thức cung cấp 32 dịch vụ công trực tuyến toàn trình (DVCTT)...
Xu hướng lãi suất của các nền kinh tế - Chi phí vốn có còn rẻ?

Xu hướng lãi suất của các nền kinh tế - Chi phí vốn có còn rẻ?

Trong các chu kỳ kinh tế trước đây, mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và chi phí vốn thường khá rõ ràng.

Các tin khác

23 ngân hàng sẵn sàng rót 500.000 tỷ đồng cho điện, hạ tầng và công nghệ

23 ngân hàng sẵn sàng rót 500.000 tỷ đồng cho điện, hạ tầng và công nghệ

Ngân hàng Nhà nước cho biết 23 ngân hàng thương mại sẽ tham gia gói tín dụng ưu đãi quy mô khoảng 500 nghìn tỷ đồng để đầu tư hạ tầng điện, giao thông và công nghệ chiến lược, với lãi suất cho vay thấp hơn từ 1–1,5% mỗi năm so với mức bình quân cùng kỳ hạn của từng ngân hàng.
Lực đẩy tăng trưởng tín dụng

Lực đẩy tăng trưởng tín dụng

Càng gần cuối năm, nhu cầu tín dụng càng cao. Theo các chuyên gia, tín dụng thông thường có thể đạt tăng trưởng gấp đôi hoặc ba lần quý trước...
Dành 500 nghìn tỷ đồng cho vay ưu đãi hạ tầng điện, giao thông, công nghệ chiến lược

Dành 500 nghìn tỷ đồng cho vay ưu đãi hạ tầng điện, giao thông, công nghệ chiến lược

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành hướng dẫn triển khai Chương trình tín dụng đầu tư hạ tầng điện, giao thông, công nghệ chiến lược, với quy mô tối đa 500 nghìn tỷ đồng, thời gian thực hiện đến năm 2030.
Tin tức ngân hàng nổi bật tuần qua: VietinBank tăng ưu đãi huy động, hút dòng tiền tiết kiệm cuối năm

Tin tức ngân hàng nổi bật tuần qua: VietinBank tăng ưu đãi huy động, hút dòng tiền tiết kiệm cuối năm

Tuần qua, nhiều ngân hàng đã có những động thái quan trọng nhằm mở rộng dịch vụ và thu hút khách hàng với hàng loạt diễn biến đáng chú ý liên quan đến hoạt động kinh doanh, hút dòng tiền tiết kiệm cuối năm như: Vietcombank điều chỉnh biểu phí giao dịch tiền mặt tại FPT Shop; HDBank chốt quyền cổ tức gần 30%; VietinBank tăng ưu đãi huy động...
Kỳ vọng NHNN từng bước bãi bỏ hạn mức tín dụng toàn hệ thống

Kỳ vọng NHNN từng bước bãi bỏ hạn mức tín dụng toàn hệ thống

Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cần sớm xây dựng lộ trình và thí điểm việc bỏ giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng từ năm 2026.
Tín dụng chọn lọc

Tín dụng chọn lọc

Tín dụng bắt đầu được các ngân hàng chọn lọc kỹ hơn, thể hiện qua lãi suất tăng lên và tiếp tục hướng vào các lĩnh vực ưu tiên, hạn mức nhỏ, vay ngắn hạn.
NHNN sẽ giữ nguyên lãi suất điều hành nếu lạm phát trong mục tiêu

NHNN sẽ giữ nguyên lãi suất điều hành nếu lạm phát trong mục tiêu

Kịch bản cơ sở đặt ra là NHNN duy trì lãi suất điều hành chính sách trong suốt năm 2026, khi lạm phát vẫn nằm trong mục tiêu và các cơ quan chức năng thúc đẩy tăng trưởng GDP mạnh hơn.
Chênh lệch tỷ giá tự do và chính thức tiếp tục thu hẹp

Chênh lệch tỷ giá tự do và chính thức tiếp tục thu hẹp

Kết phiên sáng 8/12, tỷ giá USD trên thị trường tự do bật tăng nhẹ sau cú giảm mạnh của tuần trước. Giá mua lên 27.230 VND/USD, tăng 30 đồng; giá bán đạt 27.300 VND/USD, tăng 40 đồng. Đáng chú ý, khoảng cách giữa tỷ giá tự do và tỷ giá chính thức tiếp tục co hẹp mạnh, từ 1.522 đồng vào giữa tháng 11 xuống còn khoảng 890 đồng/USD hiện nay.
Ngân hàng Nhà nước hút ròng 1.676 tỷ đồng khi lãi suất liên ngân hàng nhích lên

Ngân hàng Nhà nước hút ròng 1.676 tỷ đồng khi lãi suất liên ngân hàng nhích lên

Trong phiên giao dịch ngày 8/12, mặt bằng lãi suất liên ngân hàng bằng VND có xu hướng nhích lên tại các kỳ hạn ngắn, trong khi lãi suất USD hầu như không biến động. Trên kênh cầm cố, Ngân hàng Nhà nước giải ngân hơn 18.300 tỷ đồng song đồng thời có gần 20.000 tỷ đồng đến hạn, qua đó thực hiện hút ròng khoảng 1.676 tỷ đồng khỏi hệ thống.
Cơ quan thuế các địa phương tích cực hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi thuế

Cơ quan thuế các địa phương tích cực hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi thuế

Từ năm 2026, sẽ chấm dứt thuế khoán đối với hộ kinh doanh, chuyển sang phương thức kê khai thuế trên nền tảng số. Việc thay đổi cách quản lý thuế được xem là bước ngoặt quan trọng, đưa kinh tế cá thể tiếp cận mô hình vận hành minh bạch và tiệm cận chuẩn doanh nghiệp.
“Bệ phóng” cho BIDV

“Bệ phóng” cho BIDV

Sau 9 tháng đảm bảo kết quả kinh doanh bám sát mục tiêu, Ngân hàng TMCP Đầu tư Phát triển Việt Nam (BIDV, HOSE: BID) được kỳ vọng vượt kế hoạch đề ra và bùng nổ vào 2026.
Tin tức ngân hàng nổi bật tuần qua: Agribank tung chương trình tiết kiệm dự thưởng

Tin tức ngân hàng nổi bật tuần qua: Agribank tung chương trình tiết kiệm dự thưởng

Tuần qua, nhiều ngân hàng đã có những động thái quan trọng nhằm mở rộng dịch vụ và thu hút khách hàng với hàng loạt diễn biến đáng chú ý liên quan đến hoạt động kinh doanh, chiến lược nhân sự như: VPBank triển khai chương trình hỗ trợ hộ kinh doanh; VietinBank nâng ưu đãi lớn cho khách hàng; Agribank tung chương trình tiết kiệm dự thưởng với giải đặc biệt 1 tỷ đồng...
Mùa mua sắm cuối năm, ba cái bẫy chi tiêu khiến bạn "thủng ví"

Mùa mua sắm cuối năm, ba cái bẫy chi tiêu khiến bạn "thủng ví"

Ông Lâm Anh Tuấn - Founder Financial Planner - chia sẻ với VietnamFinance cách hiểu đúng về tâm lý chi tiêu, nhận diện bẫy cuối năm và áp dụng những nguyên tắc đơn giản để tận hưởng mùa lễ hội mà không rơi vào vòng xoáy chi tiêu thiếu kiểm soát.
Lãi suất thấp kéo dài, ngân hàng đối mặt bài toán biên lãi ròng (NIM) trong năm 2026

Lãi suất thấp kéo dài, ngân hàng đối mặt bài toán biên lãi ròng (NIM) trong năm 2026

Trong bối cảnh lãi suất huy động duy trì ở vùng cao trong khi lãi suất cho vay khó tăng tương ứng nhằm hỗ trợ phục hồi nền kinh tế, biên lãi ròng (NIM) của hệ thống ngân hàng tiếp tục chịu sức ép lớn bước vào giai đoạn cuối năm 2025 và có thể kéo dài sang năm 2026.
Áp lực thanh khoản và bài toán tín dụng trước ngưỡng cửa 2026

Áp lực thanh khoản và bài toán tín dụng trước ngưỡng cửa 2026

Lãi suất nhích lên, nhu cầu vốn tăng mạnh và tỷ lệ tín dụng/GDP đã chạm 134% đang đặt Ngân hàng Nhà nước trước bài toán khó: giữ an toàn hệ thống nhưng không để nền kinh tế thiếu vốn. Khi cơ chế room tín dụng chuẩn bị bị dỡ bỏ từ năm 2026, thách thức điều hành càng trở nên nhạy cảm, buộc nhà điều hành phải tính từng bước để cân bằng tăng trưởng và rủi ro.
The Banker vinh danh SHB là Ngân hàng của năm 2025

The Banker vinh danh SHB là Ngân hàng của năm 2025

Ngày 3/12, tại London (Anh), Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) được The Banker vinh danh là “Ngân hàng của năm 2025” (Bank of the Year 2025).
SHB dẫn đầu ngành ngân hàng VN trong bảng xếp hạng 100 nơi làm việc xuất sắc nhất Đông Nam Á

SHB dẫn đầu ngành ngân hàng VN trong bảng xếp hạng 100 nơi làm việc xuất sắc nhất Đông Nam Á

Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) vừa được vinh danh trong Top Fortune 100 Best Companies to Work For™ Southeast Asia 2025 (100 nơi làm việc xuất sắc nhất Đông Nam Á năm 2025).
Lãi suất liên ngân hàng tăng mạnh, NHNN bơm ròng hỗ trợ thanh khoản

Lãi suất liên ngân hàng tăng mạnh, NHNN bơm ròng hỗ trợ thanh khoản

Ngày 1/12/2025, lãi suất VND liên ngân hàng tăng mạnh ở hầu hết kỳ hạn ngắn, trong khi USD ổn định, phản ánh áp lực thanh khoản rõ rệt. Ngân hàng Nhà nước bơm ròng hơn 12.000 tỷ đồng qua kênh OMO để hỗ trợ hệ thống, trong bối cảnh lãi suất huy động và chi phí vốn toàn hệ thống duy trì ở mức cao, tiềm ẩn rủi ro kéo dài đến cuối năm và Tết Nguyên đán.
Xem thêm
Đổi thay nơi ngã ba biên giới Mường Nhé

Đổi thay nơi ngã ba biên giới Mường Nhé

Nỗ lực gỡ thẻ vàng thủy sản và khai thác nghề cá có trách nhiệm tại các vùng  biển.

Nỗ lực gỡ thẻ vàng thủy sản và khai thác nghề cá có trách nhiệm tại các vùng biển.

Gỡ thẻ vàng thủy sản gắn với xây dựng kinh tế biển

Gỡ thẻ vàng thủy sản gắn với xây dựng kinh tế biển

Ngày hội văn hóa các dân tộc Việt Nam 2024 sắp diễn ra tại Quảng Trị

Ngày hội văn hóa các dân tộc Việt Nam 2024 sắp diễn ra tại Quảng Trị

[Tổng Hợp] 6 Quy Định Mới Về Đất Đai, Nhà Ở Có Hiệu Lực Tháng 8/2024

[Tổng Hợp] 6 Quy Định Mới Về Đất Đai, Nhà Ở Có Hiệu Lực Tháng 8/2024

WORLDBANK DỰ BÁO KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2024 VÀ NĂM 2025 | NHỊP ĐẬP THỊ TRƯỜNG  #62

WORLDBANK DỰ BÁO KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2024 VÀ NĂM 2025 | NHỊP ĐẬP THỊ TRƯỜNG #62

Cụ thể, báo cáo “Điểm lại - Cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam” ấn bản tháng 4/2024 của WB tại Việt Nam ngày 23/4 đã chỉ ra xuất khẩu đang phục hồi, tiêu dùng và đầu tư tư nhân trong nước cũng trên đà tăng dần. Xuất khẩu thực tế dự kiến sẽ tăng 3,5% vào năm 2024, phản ánh sự cải thiện dần dần nhu cầu toàn cầu. Ngoài ra, lĩnh vực bất động sản dự báo phục hồi mạnh hơn vào cuối năm nay và năm sau, thúc đẩy nhu cầu trong nước khi các nhà đầu tư và người tiêu dùng dần lấy lại niềm tin.
Tọa đàm “Xúc tiến thương mại: Khơi thông đầu ra cho sản phẩm OCOP”

Tọa đàm “Xúc tiến thương mại: Khơi thông đầu ra cho sản phẩm OCOP”

sản phẩm OCOP
Bác sĩ tư vấn cách phòng tránh bệnh đường hô hấp trong thời tiết giao mùa

Bác sĩ tư vấn cách phòng tránh bệnh đường hô hấp trong thời tiết giao mùa

Trao yêu thương cho em

Trao yêu thương cho em

Nhằm kết nối, sẻ chia với các trẻ em mồ côi cha, mẹ do dịch Covid-19 vừa qua trên địa bàn Cần Thơ. Tạp chí Gia đình Việt Nam tại TP Cần Thơ tổ chức Chương trình nghệ thuật “ Nối vòng yêu thương” diễn ra vào ngày 28/6/2022. Công ty Cổ phần Trầm hương sinh học TTT là đơn vị tài trợ chính cho chương trình với mong muốn các em sẽ đón nhận những tương lai tươi sáng.
Kon Tum giải cứu nạn nhân bị lừa bán sang Campuchia

Kon Tum giải cứu nạn nhân bị lừa bán sang Campuchia

Ngày 18/4 vừa qua, đối tượng Lê Ngọc Nhất đã dẫn Y Liên cùng 5 người khác gồm 2 nữ, 3 nam không rõ tên tuổi, không quen biết nhau sang Campuchia qua đường mòn biên giới tỉnh Long An.
Giao diện di động