Tín dụng cho nền kinh tế năm 2023: Nỗ lực tăng trưởng nhưng cũng cần thận trọng với các rủi ro

Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), năm 2022 tăng trưởng tín dụng đạt 14,16%. Đây là tốc độ tăng trưởng khá so với những năm gần đây, khi tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2021 chỉ là 12%, năm 2020 là 12,13%. Với bối cảnh này và căn cứ mục tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát của Quốc hội, Chính phủ, NHNN định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2023 khoảng 14-15%, có điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế.

Tăng trưởng tín dụng trong một năm qua

Tuy nhiên tính đến ngày 30/6/2023, dư nợ tín dụng nền kinh tế đạt trên 12,4 triệu tỷ đồng, tăng 4,73% so với cuối năm 2022. Tốc độ tăng trưởng này thấp trong bối cảnh chính sách về tín dụng không có gì thay đổi; dư địa tín dụng đối với các tổ chức tín dụng (TCTD) tương đối rộng rãi và thanh khoản hệ thống được NHNN duy trì dồi dào. Đứng trước tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp như hiện nay, các TCTD cũng không kém phần sốt ruột bởi họ phải huy động tiền gửi, trả lãi cho người gửi tiền, nên việc không cho vay được thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập. Cho tới nay, lợi nhuận ngân hàng vẫn phụ thuộc lớn vào thu nhập lãi thuần đến từ hoạt động huy động vốn và cho vay, nên tín dụng tăng trưởng chậm đồng nghĩa với việc quy mô nguồn thu nhập chính của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng theo. Vì lẽ đó, hơn ai hết, các TCTD đều đang nỗ lực để tăng trưởng tín dụng, đưa vốn tín dụng trở lại thị trường.

Hình 1: Tổng dư nợ tín dụng của ngành Ngân hàng trong 1 năm vừa qua (ngàn tỷ VND)	Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Hình 1: Tổng dư nợ tín dụng của ngành Ngân hàng trong 1 năm vừa qua (ngàn tỷ VND) Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Hình 2: Tốc độ tăng trưởng tín dụng 5 tháng đầu năm 2022 và 5 tháng đầu năm 2023 (%)	Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Hình 2: Tốc độ tăng trưởng tín dụng 5 tháng đầu năm 2022 và 5 tháng đầu năm 2023 (%) Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Hình 3: Tỷ trọng tín dụng cho nền kinh tế phân theo ngành nghề vào thời điểm T5/2023 (%)	 	 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Hình 3: Tỷ trọng tín dụng cho nền kinh tế phân theo ngành nghề vào thời điểm T5/2023 (%) Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Mặc dù các TCTD đã rất nỗ lực, nhưng nếu nhìn vào khoảng thời gian 1 năm vừa qua, từ tháng 5/2022 đến tháng 5/2023, dư nợ tín dụng tăng rất chậm trong một số ngành như: nông, lâm nghiệp & thủ sản, công nghiệp, vận tải & viễn thông. Trong những ngành này, tín dụng tăng rất thấp, biểu đồ tăng trưởng hầu như đi ngang. Trong khoảng thời gian này, dư nợ tín dụng cho ngành nông, lâm và thủy sản chỉ tăng từ 881ngàn tỷ đồng lên 908 ngàn tỷ đồng, ngành công nghiệp chỉ từ 2.117 ngàn tỷ đồng lên 2.172 ngàn tỷ đồng, vận tải và viễn thông từ 275 ngàn tỷ đồng lên 285 ngàn tỷ đồng.

Trong khoảng thời gian này, tín dụng chỉ tăng mạnh trong hai ngành đó là thương mại và các hoạt động dịch vụ khác. Mức tăng tín dụng trong hai ngành này chiếm tỷ trọng lớn trong mức tăng thêm của tổng tín dụng đối với toàn ngành kinh tế kể từ tháng 5/2022 cho tới nay. Nhưng phần lớn sự tăng trưởng trong hai ngành này diễn ra vào nửa cuối năm 2022.

Còn trong nửa đầu năm 2023, tăng trưởng tín dụng giảm tốc mạnh nhất ở trong các ngành các hoạt động dịch vụ khác, ngành nông, lâm và thuỷ sản, công nghiệp và thương mại. Nếu như tốc độ tăng trưởng tín dụng của các hoạt động dịch vụ khác, ngành nông, lâm và thuỷ sản, công nghiệp và thương mại là 10,14%, 6,75%, 6,87% và 8,28% vào nửa đầu năm 2022, tốc độ tăng trưởng tín dụng trong các ngành này giảm mạnh xuống chỉ còn lần lượt là 1,85%, 1,94%, 3,35% và 4,96%...

Sản xuất công nghiệp suy giảm khiến cầu tín dụng trong lĩnh vực này cũng sụt giảm
Khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp hiện nay là đầu ra của sản phẩm

Cần sự vào cuộc của nhiều bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân

Sau 4 lần giảm liên tiếp lãi suất điều hành, mặt bằng lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân phát sinh mới ngoài thị trường đã giảm 1%/năm so với cuối năm 2022. Đến cuối tháng 6, lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới bằng đồng Việt Nam của các ngân hàng thương mại giảm khoảng 1 điểm phần trăm so với cuối năm 2022. Việc giảm lãi suất là thiết thực để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân và cũng là biện pháp để kích thích cầu tín dụng qua giảm hình thức giảm "giá".

Nhưng cũng cần phải thừa nhận một thực tế là giảm lãi suất mới chỉ là một chìa khóa để mở cánh cửa đưa tín dụng quay trở lại nền kinh tế mạnh mẽ hơn. Chìa khóa thứ hai do chính các doanh nghiệp và người dân nắm giữ, đó là năng lực hấp thụ vốn, hay nói cách khác là năng lực sử dụng vốn hiệu quả của chính các doanh nghiệp, nhu cầu vay vốn và sử dụng vốn của người dân.

Lãi suất giảm nhưng doanh nghiệp và người dân có vay được vốn hay không, và từ đó tín dụng có tăng trưởng được hay không còn do chính các doanh nghiệp, người dân quyết định trên các nguyên tắc thương mại bình đẳng giữa ngân hàng cùng doanh nghiệp và người dân.

Lãi suất cho vay giảm nhưng cũng cần đi kèm với năng lực hấp thụ vốn của doanh nghiệp được cải thiện, đơn hàng của doanh nghiệp gia tăng, cơ hội thị trường, cơ hội kinh doanh, đầu tư xuất hiện nhiều hơn, đa dạng hơn, hay các yếu tố khác ví dụ như nguồn cung của thị trường nhà ở, dịch vụ nhà ở được cải thiện.

Thực tế cho thấy tăng trưởng tín dụng ở mức thấp do cầu tín dụng giảm khi động lực đầu tư, xuất khẩu suy yếu. Tiêu dùng cuối cùng của người dân vẫn tăng nhưng tốc độ tăng đã chậm lại. Trong 6 tháng đầu năm 2023, đầu tư công tăng mạnh, qua đó phần nào hỗ trợ cho ngành xây dựng và từ đó cũng hỗ trợ cho mức tăng trưởng tín dụng cho ngành xây dựng ở mức 5,39%, cao hơn mức 3,97% vào cùng kỳ tháng 5 năm ngoái. Nhưng sự hồi phục của ngành xây dựng còn có thể mạnh mẽ hơn nếu như có sự khởi sắc trở lại của thị trường nhà ở, nhà cho thuê. Cho tới nay, thị trường bất động sản vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn (chủ yếu liên quan đến vấn đề pháp lý dự án) khiến tín dụng bất động sản tăng chậm, ảnh hưởng tới tăng trưởng tín dụng chung.

Sự hồi phục về tốc độ tăng trưởng tín dụng không thể chỉ xuất phát từ nỗ lực duy nhất của ngành Ngân hàng mà còn cần sự vào cuộc và chung tay của các ngành, nghề khác. Ví dụ như tăng trưởng tín dụng đối với lĩnh vực chế biến chế tạo chỉ khả thi khi ngành công thương có các nỗ lực đưa tốc độ tăng trưởng của ngành chế biến, chế tạo quay trở lại. Tín dụng cho lĩnh vực thương mại sẽ chỉ có thể được duy trì, tăng cao nếu như các hoạt động thương mại, tiêu dùng trong nước, hay hoạt động xuất - nhập khẩu được cải thiện.

Với các tỷ trọng lớn nhất trong tín dụng cho nền kinh tế lần lượt chiếm 39,7% và 24,5%, tăng trưởng tín dụng với các hoạt động dịch vụ khác và thương mại sẽ có ý nghĩa đóng góp quan trọng cho tổng mức tăng trưởng tín dụng trong những tháng cuối năm và cho toàn ngành kinh tế. Tăng trưởng tín dụng của các ngành này chỉ có thể nếu như các ngành như du lịch, công nghệ thông tin, xuất - nhập khẩu, vận tải, logistics hồi phục và các bộ, ngành phụ trách các ngành này thực hiện các biện pháp nỗ lực để đưa tốc độ tăng trưởng tích cực của các ngành này sớm quay trở lại.

Tín dụng tiêu dùng bất động sản sẽ chỉ có thể quay trở lại tăng trưởng dương so với mức giảm 1,32% tính đến cuối tháng 5/2023 nếu như các bộ, ngành như Xây dựng, Kế hoạch Đầu tư, Tài nguyên - Môi trường và chính quyền các địa phương cùng chung tay tháo gỡ các khó khăn, góp phần làm gia tăng nguồn cung về nhà ở, đưa giá nhà ở xuống mức hợp lý, phù hợp với khả năng chi trả của người dân.

Trong lĩnh vực bất động sản, bên cạnh nỗ lực của NHNN chỉ đạo các TCTD tập trung nguồn vốn vào các dự án, các bộ, ngành liên quan, chính quyền địa phương cũng cần tiến hành các biện pháp nhằm tháo gỡ các khó khăn của doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp hoàn thiện điều kiện pháp lý, đưa sản phẩm ra thị trường, nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm, xây dựng các sản phẩm đáp ứng nhu cầu thực của người dân, nhất là các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, nhà ở phù hợp với thu nhập của người dân và các loại hình bất động sản phục vụ mục đích sản xuất, kinh doanh, an sinh xã hội có hiệu quả cao, có khả năng trả nợ và phát triển, từ đó nâng cao khả năng vay vốn và hoàn trả vốn vay của các doanh nghiệp này.

Tăng trưởng tín dụng và những thận trọng cần lưu ý

Tín dụng là đầu vào quan trọng cho nền kinh tế. Để kích thích tăng trưởng, các nền kinh tế tìm cách hạ lãi suất để kích thích tiêu dùng, kích thích đầu tư và từ đó kích thích tăng trưởng. Nhưng điều kiện để làm điều đó là phải dựa trên các nguyên tắc đảm bảo các chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng như chỉ số giá tiêu dùng, lạm phát được kiểm soát, tỷ giá hối đoái được duy trì ổn định. Điều đó khả thi khi tổng cầu của nền kinh tế đủ mạnh để hấp thụ được sự mở rộng của hoạt động sản xuất kinh doanh và doanh nghiệp có thể thấy được sự mở rộng kinh doanh của họ là khả thi về góc độ thị trường.

Tăng trưởng tín dụng bằng biện pháp giảm lãi suất trong bối cạnh hiện tại của nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều ràng buộc hơn rất nhiều. Việc tiếp tục hạ lãi suất để đưa giá tín dụng xuống thấp hơn nữa sẽ gặp những trở ngại như rủi ro về lạm phát vẫn trực chờ, tác động đối với tỷ giá hối đoái khi lãi suất của đồng USD và tại nhiều nền kinh tế lớn khác vẫn chưa giảm hoặc thậm chí vẫn có khả năng được gia tăng.

Bên cạnh đó, vấn đề của nền kinh tế Việt Nam hiện nay nằm nhiều ở tổng cầu. Ngoại trừ tiêu dùng trong nước, đầu tư, chi tiêu chính phủ đặc biệt thông qua đầu tư công là những yếu tố chúng ta có thể tác động và phần nào kiểm soát được, thì hoạt động xuất - nhập khẩu hiện phụ thuộc rất nhiều vào sự phục hồi của các nền kinh tế lớn nhập khẩu hàng hoá dịch vụ từ Việt Nam. Thực tế thì sự hồi phục của thị trường xuất khẩu của hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam cho tới thời điểm này chưa có những dấu hiệu tích cực một cách rõ nét. Trong bối cảnh đó, gia tăng tín dụng để doanh nghiệp hay các cơ sở kinh tế mở rộng sản xuất kinh doanh trong khi tổng cầu không đảm bảo hấp thụ được năng lực sản xuất được mở rộng và nguồn cung gia tăng chắc chắn chứa đựng nhiều rủi ro đối với chính doanh nghiệp và kế đó là đối với chất lượng tín dụng.

Tăng sức cầu nội địa, tạo đầu ra cho sản phẩm
Tăng sức cầu nội địa, tạo đầu ra cho sản phẩm

Gia tăng tín dụng chỉ bằng biện pháp giảm lãi suất mà không song hành với các biện pháp hồi phục, củng cố và phát triển tổng cầu sẽ khiến nguồn vốn tín dụng gia tăng và được chuyển tải đến các dự án sản xuất kinh doanh thiếu bền vững về tài chính, không chắc chắn về phương án trả nợ. Do thiếu các dự án sản xuất kinh doanh có tính khả thi, có khả năng hoàn trả nợ vay, các nỗ lực đẩy mạnh vốn ra thị trường thậm chí có thể dẫn đến tình trạng vốn tín dụng được chuyển tới các lĩnh vực có tính đầu cơ, từ đó khiến một số thị trường tăng giá bong bóng trở lại.

Do vậy, tăng trưởng tín dụng nên chỉ ở liều lượng phù hợp để hỗ trợ, kích thích tăng trưởng kinh tế, phù hợp với năng lực hấp thụ của nền kinh tế. Vốn tín dụng quá nhiều, vượt quá năng lực hấp thụ của nền kinh tế sẽ gây rủi ro về nợ xấu, rủi ro bong bóng tài sản, tình trạng đầu cơ.

Đẩy tín dụng vào nền kinh tế khi năng lực hấp thụ của nền kinh tế còn hạn chế, doanh nghiệp, người dân hay các cơ sở kinh tế chưa sẵn sàng về năng lực sử dụng, khi đó cũng khó đảm bảo rằng tín dụng với tư cách là nhân tố đầu vào sẽ được chuyển hoá hiệu quả thành tăng trưởng. Bơm vốn bằng mọi cách để đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa hẳn là phương án tối ưu nhất. Nó có thể gây ra nhiều hệ luỵ, đặc biệt là về rủi ro gia tăng nợ xấu do áp lực phải giải ngân vốn bằng mọi cách, áp lực phải hạ chuẩn tín dụng để đưa vốn ra thị trường. Điều này khiến nguồn lực này không được phân bổ tới những doanh nghiệp và người dân sử dụng nó một cách tốt nhất, hoặc không được để dành đến thời điểm mà doanh nghiệp và người dân có thể sử dụng một cách tốt nhất khi điều kiện thị trường tốt hơn.

Tăng trưởng tín dụng là cần thiết để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, song mức tăng trưởng tín dụng với vai trò của một yếu tố đầu vào nên ở liều lượng phù hợp, đủ để kích thích tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng về tín dụng cũng chỉ nên ở mức tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong những năm vừa qua, tốc độ tăng trưởng tín dụng luôn ở mức gấp 2 lần, thậm chí gấp 3 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP. Điều này cho thấy hiệu quả đóng góp của một đồng tín dụng tăng thêm vào tăng trưởng GDP chưa cao. Thực tế này đặt ra một yêu cầu là thay vì chỉ tập trung vào con số tăng trưởng về số lượng, các ưu tiên chính sách hiện nay cũng cần chuyển hướng sang chú trọng nâng cao hiệu quả, chất lượng của tín dụng và hiệu quả của đóng góp của tăng trưởng về tín dụng cho tăng trưởng GDP, từ đó nâng cao hiệu quả tổng thể trong sử dụng nguồn lực của nền kinh tế.

Tỷ lệ tín dụng ngân hàng trên GDP của Việt Nam hiện nay là 125%, nằm trong số các nước có tỷ lệ này cao nhất trong ASEAN. Nhiều tổ chức quốc tế như IMF, WB cũng đã khuyến nghị Việt Nam không nên để mức tín dụng trên GDP ở mức quá cao do điều này có thể ảnh hưởng tới các chỉ số an toàn về kinh tế vĩ mô, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương hơn và cũng như khiến nền kinh tế phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn ngân hàng. Tốc độ tăng trưởng tín dụng luôn gấp 2 hoặc gấp 3 tốc độ tăng trưởng GDP như trong những năm vừa qua và có thể trong năm nay và những năm tới đây sẽ khiến cho tỷ lệ này của Việt Nam sớm vượt qua mức 125%. Tỷ lệ quá cao như vậy rõ ràng không có lợi cho sự ổn định vững chắc và năng lực chống chọi cao của kinh tế vĩ mô.

Nhấn mạnh vào tăng trưởng tín dụng, nguồn vốn ngân hàng sẽ dẫn đến tâm lý coi tín dụng là chìa khoá của tăng trưởng và là giải pháp cho mọi vấn đề của nền kinh tế. Nó cũng dẫn đến tâm lý phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng và làm trì hoãn các nỗ lực nhằm phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu và các kênh huy động vốn khác.

Từ góc độ này, tốc độ tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng về số lượng không nên được coi là mục tiêu hay chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động của ngành Ngân hàng hay của nền kinh tế. Nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn, năng suất hơn nếu như các nguồn lực hạn chế như tín dụng được sử dụng ít hơn nhưng lại mang lại tốc độ tăng trưởng cao hơn. Nhấn mạnh vào tăng trưởng tín dụng mới chỉ là nhấn mạnh về yếu tố đầu vào chứ chưa phải vào hiệu quả đầu ra, vào số lượng chứ chưa phải vào chất lượng. Cũng vì lý do đó, các chỉ tiêu về tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế không nên được coi là chỉ tiêu ưu tiên hàng đầu. Thay vì sử dụng chỉ tiêu về số lượng hay tốc độ tăng trưởng tín dụng, cần sử dụng các chỉ tiêu về chất lượng của tăng trưởng tín dụng, đặc biệt là về đóng góp của tăng trưởng tín dụng cho tăng trưởng GDP. Đồng thời, cần nhấn mạnh vào các mục tiêu khác cũng vô cùng quan trọng của ngành Ngân hàng đó là sự an toàn hệ thống, lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng được kiềm chế, tỷ giá hối đoái ổn định, thanh khoản được đảm bảo, khả năng cung ứng vốn đầy đủ, phù hợp, đúng liều lượng mà nền kinh tế cần, nguồn lực tín dụng được phân bổ hiệu quả.

Nếu tốc độ tăng trưởng tín dụng năm nay không đạt được mục tiêu 14-15% song tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn đạt được mức 5,3%, tiệm cận mức mục tiêu tăng trưởng 6-6,5% như Chính phủ đề ra, đồng thời lạm phát được kiểm soát, tỷ giá hối đoái được ổn định, các chỉ số kinh tế vĩ mô được duy trì, sức khoẻ của ngành Ngân hàng, hệ thống tài chính được đảm bảo, đầu tư vẫn gia tăng, thì đây chắc chắn không phải là một điểm trừ. Trái lại, thậm chí đây lại là một điểm cộng do nó là chỉ dấu cho thấy nền kinh tế bắt đầu hướng tới mục tiêu sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả hơn và nền kinh tế sẽ có những định hướng để giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn vốn ngân hàng, chú trọng hơn khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn khác của nền kinh tế.

Đó mới là nền tảng cho sự phát triển bền vững và là khởi đầu cho sự dịch chuyển từ mô hình dựa trên các yếu tố đầu vào sang mô hình tăng trưởng dựa vào năng suất và hiệu quả.

Nguồn: Tín dụng cho nền kinh tế năm 2023: Nỗ lực tăng trưởng nhưng cũng cần thận trọng với các rủi ro

TS. Lê Duy Bình
thoibaonganhang.vn
Chia sẻ

Tin liên quan

Cùng chuyên mục

Gỡ dần giao chỉ tiêu tín dụng

Gỡ dần giao chỉ tiêu tín dụng

Ngành ngân hàng chưa thể bỏ cấp hạn mức tín dụng để sử dụng các công cụ khác thay thế, nhưng việc giao chỉ tiêu dần theo hướng chủ động có ý nghĩa lớn.
Xây dựng trung tâm tài chính quốc tế: Nhắm đích cuối năm 2025

Xây dựng trung tâm tài chính quốc tế: Nhắm đích cuối năm 2025

Việt Nam đặt mục tiêu có ít nhất một trung tâm tài chính vào cuối năm 2025, nhằm thúc đẩy dịch vụ tài chính và phát triển kinh tế - xã hội.
Cả nước thu hút gần 25 tỉ USD vốn FDI trong 9 tháng

Cả nước thu hút gần 25 tỉ USD vốn FDI trong 9 tháng

9 tháng năm nay, cả nước thu hút gần 25 tỉ USD vốn FDI, trong đó, chỉ riêng tháng 9, tổng lượng vốn FDI đạt mức cao nhất với gần 4,26 tỉ USD.
Quản trị tài chính doanh nghiệp hiệu quả cùng gói tài khoản siêu ưu đãi - OMNI Platinum

Quản trị tài chính doanh nghiệp hiệu quả cùng gói tài khoản siêu ưu đãi - OMNI Platinum

Ngân hàng Phương Đông (OCB) chính thức ra mắt gói tài khoản siêu ưu đãi OMNI Platinum ngay trên ngân hàng số dành cho doanh nghiệp (OMNI Corp).
Lãi suất tăng mạnh, tiền gửi ngân hàng lập kỷ lục

Lãi suất tăng mạnh, tiền gửi ngân hàng lập kỷ lục

Lượng tiền gửi từ người dân vào hệ thống ngân hàng tiếp tục lập kỷ lục trong bối cảnh lãi suất tăng mạnh từ tháng 4 đến nay.
Không lo nợ xấu tiềm năng từ tái cơ cấu nợ do bão Yagi

Không lo nợ xấu tiềm năng từ tái cơ cấu nợ do bão Yagi

Số dư nợ dự kiến (bị ảnh hưởng bởi bão Yagi) được tái cơ cấu sẽ ở mức nhỏ, do đó, các khoản nợ xấu tiềm năng cũng sẽ nhỏ.

Các tin khác

Tín dụng bán lẻ dự báo sớm tăng tốc trở lại

Tín dụng bán lẻ dự báo sớm tăng tốc trở lại

Nhóm tín dụng bán lẻ dự báo sẽ tăng tốc trong nửa cuối năm 2025 và dẫn dắt đà tăng trưởng chung của nền kinh tế như giai đoạn 2021 - 2022.
PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân: "Nhu cầu tín dụng càng về cuối năm càng cao do thị trường bất động sản đang có dấu hiệu ấm lên"

PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân: "Nhu cầu tín dụng càng về cuối năm càng cao do thị trường bất động sản đang có dấu hiệu ấm lên"

Theo PGS. TS Nguyễn Hữu Huân, tăng trưởng tín dụng 9 tháng đầu năm thấp hơn kỳ vọng nhưng chất lượng tín dụng được đánh giá là tốt hơn mọi năm do chảy vào nền kinh tế thực thay vì vào các kênh đầu cơ như bất động sản hay chứng khoán.
Giá USD giảm sâu trên thị trường tự do

Giá USD giảm sâu trên thị trường tự do

Giá USD trên thị trường tự do hôm nay tiếp tục xu hướng giảm từ đầu tuần, với mức giảm khoảng 130 đồng/USD.
Phát huy hiệu quả nguồn lực kiều hối: Các nhóm giải pháp

Phát huy hiệu quả nguồn lực kiều hối: Các nhóm giải pháp

"Đề án chính sách phát huy hiệu quả nguồn lực kiều hối trên địa bàn TP.HCM từ nay đến năm 2030" vừa được UBND TPHCM phê duyệt, có hiệu lực từ 26/09/2024.
Nắn dòng tín dụng xanh đến các "mầm xanh" kinh tế

Nắn dòng tín dụng xanh đến các "mầm xanh" kinh tế

Dù đã được khuyến khích và triển khai từ nhiều năm qua, nguồn vốn tín dụng xanh tại Việt Nam vẫn chưa đạt được hiệu quả như kỳ vọng khi chưa đến được với các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs), nơi rất cần sự hỗ trợ để thúc đẩy chuyển đổi xanh và bền vững.
Áp lực phân hóa, doanh nghiệp bất động sản đua tăng vốn

Áp lực phân hóa, doanh nghiệp bất động sản đua tăng vốn

Các doanh nghiệp bất động sản có sẵn quỹ đất dự án để khai thác, nhưng khả năng và tiến độ khai thác sẽ có sự phân hóa bởi 2 yếu tố: Pháp lý và Tài chính.
Đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp bất động sản còn cao

Đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp bất động sản còn cao

Thị trường bất động sản phục hồi sẽ cải thiện dòng tiền nhưng cũng làm tăng đòn bẩy tài chính và suy yếu khả năng trả nợ của một số chủ đầu tư.
Huy động tiền gửi 6%, vì sao ngân hàng phát hành TP lãi suất 8,2%/năm?

Huy động tiền gửi 6%, vì sao ngân hàng phát hành TP lãi suất 8,2%/năm?

Nhiều ngân hàng phát hành trái phiếu với lãi suất cao hơn gửi tiết kiệm, có ngân hàng tới 8,2%/năm nhằm đảm bảo nguồn vốn, đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn.
Ngân hàng cần kết nối triển khai các giải pháp hỗ trợ khách hàng sau bão Yagi

Ngân hàng cần kết nối triển khai các giải pháp hỗ trợ khách hàng sau bão Yagi

Các tổ chức tín dụng (TCTD) sẽ tiếp tục rà soát, báo cáo số liệu khách hàng thiệt hại do bão Yagi về NHNN và cập nhật thường xuyên số liệu này.
Tài sản thế chấp tại các ngân hàng biến động ra sao trong nửa đầu năm 2024?

Tài sản thế chấp tại các ngân hàng biến động ra sao trong nửa đầu năm 2024?

Tài sản thế chấp tại loạt ngân hàng tư nhân như ACB, VIB, MB... ngày càng tăng, kèm theo đó nợ xấu cũng tăng không kém.
Tạo cơ chế hỗ trợ khách hàng vượt qua khó khăn

Tạo cơ chế hỗ trợ khách hàng vượt qua khó khăn

Trước thiệt hại to lớn của doanh nghiệp trong cơn bão số 3, Agribank đã chủ động triển khai chương trình giảm lãi suất hỗ trợ khách hàng vay vốn bị thiệt hại.
Ngân hàng Nhà nước có khả năng cân nhắc nới lỏng tiền tệ hơn nữa?

Ngân hàng Nhà nước có khả năng cân nhắc nới lỏng tiền tệ hơn nữa?

Việc Fed công bố cắt giảm lãi suất 0,5% có thể làm tăng khả năng (và áp lực) đối với NHNN trong việc cân nhắc nới lỏng chính sách một cách tương tự.
“Đòn bẩy” tăng trưởng tín dụng

“Đòn bẩy” tăng trưởng tín dụng

Điều kiện để tiếp tục duy trì và mở rộng nới lỏng tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế theo kịch bản cao đã sẵn sàng.
Các ngân hàng tích cực triển khai nhiều chính sách để hỗ trợ khách hàng bị thiệt hại do bão số 3

Các ngân hàng tích cực triển khai nhiều chính sách để hỗ trợ khách hàng bị thiệt hại do bão số 3

Nhiều ngân hàng đã áp dụng các chương trình hỗ trợ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp bị thiệt hại do bão số 3. Bên cạnh chính sách cơ cấu nợ, giãn hoãn nợ, hầu hết các ngân hàng triển khai giảm lãi suất cho vay trên dư nợ hiện hữu và dư nợ vay mới, phổ biến ở mức từ 1 - 2%. Cá biệt có ngân hàng giảm tới 50% tiền lãi hiện tại cho khách hàng vay vốn bị ảnh hưởng của bão lụt.
4 giải pháp điều hành của Ngân hàng Nhà nước đến cuối năm 2024

4 giải pháp điều hành của Ngân hàng Nhà nước đến cuối năm 2024

NHNN tiếp tục các giải pháp điều hành tín dụng chủ động, linh hoạt, phù hợp với diễn biến vĩ mô, lạm phát, tạo điều kiện tiếp cận vốn.
Kỳ vọng Việt Nam duy trì lãi suất chính sách, "để mắt" rủi ro lạm phát

Kỳ vọng Việt Nam duy trì lãi suất chính sách, "để mắt" rủi ro lạm phát

Quyết định mới nhất của FOMC là một bất ngờ so với dự báo của chúng tôi. Việt Nam lựa chọn chính sách lãi suất nào trong thời gian còn lại của 2024?
Nợ thuế và chuyện hài hòa lợi ích

Nợ thuế và chuyện hài hòa lợi ích

Chế tài tạm hoãn xuất cảnh vì nợ thuế đang ngày càng nỗi ám ảnh với doanh nghiệp. Sự cân bằng, hài hòa lợi ích đang rất cần thấu tỏ, sẻ chia từ cơ quan quản lý.
Xây dựng gói lãi suất 0% hỗ trợ khách hàng ảnh hưởng bão Yagi

Xây dựng gói lãi suất 0% hỗ trợ khách hàng ảnh hưởng bão Yagi

Chính phủ chỉ đạo ngành ngân hàng đưa ra chính sách ưu đãi tín dụng hay gói lãi suất 0% hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng của bão Yagi.
Xem thêm
[Tổng Hợp] 6 Quy Định Mới Về Đất Đai, Nhà Ở Có Hiệu Lực Tháng 8/2024

[Tổng Hợp] 6 Quy Định Mới Về Đất Đai, Nhà Ở Có Hiệu Lực Tháng 8/2024

WORLDBANK DỰ BÁO KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2024 VÀ NĂM 2025 | NHỊP ĐẬP THỊ TRƯỜNG  #62

WORLDBANK DỰ BÁO KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2024 VÀ NĂM 2025 | NHỊP ĐẬP THỊ TRƯỜNG #62

Cụ thể, báo cáo “Điểm lại - Cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam” ấn bản tháng 4/2024 của WB tại Việt Nam ngày 23/4 đã chỉ ra xuất khẩu đang phục hồi, tiêu dùng và đầu tư tư nhân trong nước cũng trên đà tăng dần. Xuất khẩu thực tế dự kiến sẽ tăng 3,5% vào năm 2024, phản ánh sự cải thiện dần dần nhu cầu toàn cầu. Ngoài ra, lĩnh vực bất động sản dự báo phục hồi mạnh hơn vào cuối năm nay và năm sau, thúc đẩy nhu cầu trong nước khi các nhà đầu tư và người tiêu dùng dần lấy lại niềm tin.
Tọa đàm “Xúc tiến thương mại: Khơi thông đầu ra cho sản phẩm OCOP”

Tọa đàm “Xúc tiến thương mại: Khơi thông đầu ra cho sản phẩm OCOP”

sản phẩm OCOP
Bác sĩ tư vấn cách phòng tránh bệnh đường hô hấp trong thời tiết giao mùa

Bác sĩ tư vấn cách phòng tránh bệnh đường hô hấp trong thời tiết giao mùa

Trao yêu thương cho em

Trao yêu thương cho em

Nhằm kết nối, sẻ chia với các trẻ em mồ côi cha, mẹ do dịch Covid-19 vừa qua trên địa bàn Cần Thơ. Tạp chí Gia đình Việt Nam tại TP Cần Thơ tổ chức Chương trình nghệ thuật “ Nối vòng yêu thương” diễn ra vào ngày 28/6/2022. Công ty Cổ phần Trầm hương sinh học TTT là đơn vị tài trợ chính cho chương trình với mong muốn các em sẽ đón nhận những tương lai tươi sáng.
Kon Tum giải cứu nạn nhân bị lừa bán sang Campuchia

Kon Tum giải cứu nạn nhân bị lừa bán sang Campuchia

Ngày 18/4 vừa qua, đối tượng Lê Ngọc Nhất đã dẫn Y Liên cùng 5 người khác gồm 2 nữ, 3 nam không rõ tên tuổi, không quen biết nhau sang Campuchia qua đường mòn biên giới tỉnh Long An.
Giới thiệu Phổ biến kiến thức Pháp luật

Giới thiệu Phổ biến kiến thức Pháp luật

Phổ biến, cập nhật kiến thức pháp luật là hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu, bổ sung kiến thức, các quy định pháp luật mới ban hành. Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc cập nhật kiến thức pháp luật có vai trò rất quan trọng, góp phần hình thành tri thức pháp lý, thái độ, hành vi xử sự của mọi người phù hợp với đòi hỏi của hệ thống pháp luật. Tại tỉnh Quảng Ninh, việc phổ biến, cập nhật kiến thức pháp luật cho những người hoạt động không chuyên trách ở cơ sở có ý nghĩa quan trọng, góp phần giữ vững ổn định chính trị, an ninh, trật tự trên địa bàn.
Phổ biến Luật tiếp cận thông tin

Phổ biến Luật tiếp cận thông tin

Luật này quy định về việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân, nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân.
Hướng đến Chuyển đổi số sâu rộng

Hướng đến Chuyển đổi số sâu rộng

Trong thời kỳ hội nhập và phát triển, chuyển đổi số ngày càng đóng vai trò quan trọng, quyết định hiệu quả thành công của doanh nghiệp. Và, một thực tế cho thấy, các doanh nghiệp trên toàn thế giới thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, từ bán lẻ, tài chính và chăm sóc sức khỏe, cho đến khu vực công, đều đang khởi động các dự án chuyển đổi số để cải thiện trải nghiệm khách hàng và tăng hiệu quả hoạt động.
Giao diện di động